Đàng thánh giá theo tiếng La-tinh là Via Crucis (đàng / đường thánh giá) hay Via Dolorosa (đàng / đường khổ nạn)thường gồm 14 các ảnh tượng hay phù điêu được đặt để trong một không gian nào đó và làm thành 14 chặng.
TỪ NGỮ
Đàng thánh giá theo tiếng La-tinh là Via Crucis (đàng / đường thánh giá) hay Via Dolorosa (đàng / đường khổ nạn) thường gồm 14 các ảnh tượng hay phù điêu được đặt để trong một không gian nào đó và làm thành 14 chặng. Theo truyền thống, mười bốn chặng này ghi lại các biến cố quan trọng nhất trong hành trình của Chúa Kitô từ lúc ngài bị kết án trước quan tòa Philatô cho đến khi được mai táng trong mồ.
Trong khi hạn từ “đường thánh”(Via Sacra) được đề cập hồi thế kỷ XII thì hạn từ “chặng” (station) lần đầu tiên được sử dụng bởi một người Anh tên là William Wey vào thế kỷ XV nhằm ám chỉ một nơi thánh mà những người hành hương dừng lại để suy niệm (William Wey đã đi viếng Đất Thánh trong những năm 1458– 1462).
Đàng thánh giá theo tiếng La-tinh là Via Crucis (đàng / đường thánh giá) hay Via Dolorosa (đàng / đường khổ nạn) thường gồm 14 các ảnh tượng hay phù điêu được đặt để trong một không gian nào đó và làm thành 14 chặng. Theo truyền thống, mười bốn chặng này ghi lại các biến cố quan trọng nhất trong hành trình của Chúa Kitô từ lúc ngài bị kết án trước quan tòa Philatô cho đến khi được mai táng trong mồ.
Trong khi hạn từ “đường thánh”(Via Sacra) được đề cập hồi thế kỷ XII thì hạn từ “chặng” (station) lần đầu tiên được sử dụng bởi một người Anh tên là William Wey vào thế kỷ XV nhằm ám chỉ một nơi thánh mà những người hành hương dừng lại để suy niệm (William Wey đã đi viếng Đất Thánh trong những năm 1458– 1462).
Hạn từ ‘Chặng đàng thánh giá’ có nguồn gốc từ chính phương pháp biểu lộ lòng sùng kính này, tức là các tín hữu - cá nhân hay từng nhóm - sẽ di chuyển như một cuộc hành hương nhỏ và thiêng liêng từ chặng này qua chặng kia rồi đứng lại [hay quy tụ] tại một trong 14 nơi (chặng) khác nhau để cầu nguyện hay suy gẫm về những biến cố trong cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Nhiều bản văn đã được soạn thảo để các tín hữu dùng khi đi viếng đàng thánh giá, nhưng bản kinh của thánh Anphongsô Ligouri (năm 1787) vẫn là phổ biến nhất. Khi di chuyển từ chặng này qua chặng kia, người ta có thói quen hát một đoạn thánh ca thời Trung cổ trong bàiStabat Mater.
LỊCH SỬ - HÌNH THỨC 14 CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
Từ ban đầu, các chặng đàng thánh giá thường được đặt tại các hành lang tu viện hay ngoài trời (dọc theo những con đường tiến đến nhà thờ hay đền thánh). Các chặng đàng thánh giá cũng thường được thiết lập tại một khu vực mà các tín hữu có thể dễ dàng thực thi lòng sùng kính nhằm tôn vinh cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô.
Lòng sùng kính này bắt nguồn từ các tín hữu thời sơ khai khi họ đi kính viếng và theo chân Chúa Giêsu trong hành trình Ngài chịu khổ hình và chịu chết ở Giêrusalem vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Truyền thống cho rằng, Đức Mẹ vẫn hằng ngày viếng thăm những nơi diễn ra cuộc thương khó của con mình.
Những đoàn hành hương đạo đức đến Giêrusalem trở nên đông đảo hơn, nhất là trong Tuần Thánh, sau khi hoàng đế Constantinô cho xây ngôi nhà thờ Anastasis vào năm 335 ngay trên địa điểm tương truyền là ngôi mộ Chúa Giêsu, cũng như khi xuất hiện thánh đường Martyrium trên đồi Canvê. Thánh Giêrônimô (342-420) xác nhận rằng đám đông các tín hữu đến từ những quốc gia khác nhau vẫn hành hương đến kính viếng những nơi thánh và bước theo đường thánh giá Chúa Giêsu. Sự sùng mộ này cũng được làm chứng bởi những khách hành hương nổi tiếng hồi thế kỷ IV trong những trình thuật của họ, đặc biệt là cuốn Hành trình của Burdigalense (Itineraium Burdigalense) và Hành trình của Egeriae (Itineraium Egeriae).
Về phương diện thực hành, các tín hữu dừng tại mỗi “địa điểm thánh” để suy niệm, thinh lặng và cầu nguyện về hành trình khổ nạn của Chúa Giêsu từ vườn Giệtsimani (Mc 14, 32) cho đến Núi Sọ, nơi Chúa bị đóng đinh giữa hai tên trộm (Lc 23, 33; Mc 15, 22) và tới khu vườn, nơi Người được chôn cất trong hầm mộ khoét trong khối đá (Ga 19, 40-42). Chính những người hành hương này khi trở về nhà vẫn tiếp tục thực hành lòng sùng kính đó. Khi việc đi hành hương tới Thánh Địa bị ngăn trở do người Hồi giáo chiếm cứ Palestine, phong trào hành hương chuyển qua hướng thiêng liêng, nghĩa là họ hành hương tại địa phương với những di vật được đem từ các nơi thánh ở Giêrusalem về và tại những “nơi thánh” được xây dựng ở châu Âu mô phỏng theo những gì họ đã chứng kiến nơi Đất Thánh.
Dù việc mô phỏng các nơi thánh ở Giêrusalem đã diễn ra ngay từ thế kỷ V, nhưng đến thế kỷ XV, người ta thấy nở rộ hơn nhiều việc sao chép như thế tại khoảng 30 địa điểm khác nhau nằm trong các trung tâm tâm linh ở Âu châu. Chẳng hạn, chân phước Alvarez (1420) đã cho xây một loạt các nhà nguyện nhỏ tại tu viện Đaminh vùng Cordova với những chặng đàng tách biệt; cùng thời gian đó, chân phước Eustochia thuộc dòng Clara cũng cho lập các chặng đàng thánh giá tương tự tại tu viện vùng Messina; rất nhiều những chặng đàng thánh giá khác mọc lên tại G#rlitz do công của G. Emmerich vào khoảng năm 1465 và tại Nuremburg, do công của Ketzel (năm 1468).
Về phương diện thực hành, các tín hữu dừng tại mỗi “địa điểm thánh” để suy niệm, thinh lặng và cầu nguyện về hành trình khổ nạn của Chúa Giêsu từ vườn Giệtsimani (Mc 14, 32) cho đến Núi Sọ, nơi Chúa bị đóng đinh giữa hai tên trộm (Lc 23, 33; Mc 15, 22) và tới khu vườn, nơi Người được chôn cất trong hầm mộ khoét trong khối đá (Ga 19, 40-42). Chính những người hành hương này khi trở về nhà vẫn tiếp tục thực hành lòng sùng kính đó. Khi việc đi hành hương tới Thánh Địa bị ngăn trở do người Hồi giáo chiếm cứ Palestine, phong trào hành hương chuyển qua hướng thiêng liêng, nghĩa là họ hành hương tại địa phương với những di vật được đem từ các nơi thánh ở Giêrusalem về và tại những “nơi thánh” được xây dựng ở châu Âu mô phỏng theo những gì họ đã chứng kiến nơi Đất Thánh.
Dù việc mô phỏng các nơi thánh ở Giêrusalem đã diễn ra ngay từ thế kỷ V, nhưng đến thế kỷ XV, người ta thấy nở rộ hơn nhiều việc sao chép như thế tại khoảng 30 địa điểm khác nhau nằm trong các trung tâm tâm linh ở Âu châu. Chẳng hạn, chân phước Alvarez (1420) đã cho xây một loạt các nhà nguyện nhỏ tại tu viện Đaminh vùng Cordova với những chặng đàng tách biệt; cùng thời gian đó, chân phước Eustochia thuộc dòng Clara cũng cho lập các chặng đàng thánh giá tương tự tại tu viện vùng Messina; rất nhiều những chặng đàng thánh giá khác mọc lên tại G#rlitz do công của G. Emmerich vào khoảng năm 1465 và tại Nuremburg, do công của Ketzel (năm 1468).
Peter Sterckx cũng bắt chước làm như vậy tại Louvain năm 1505 và tại St. Getreu vùng Bamberg (1507). Còn ở Nuremburg, tác phẩm được điêu khắc bởi Adam Krafft, cũng như một vài tác phẩm khác, bao gồm trong đó tác phẩm “7 chặng” nổi tiếng như là “7 lần ngã xuống” bởi vì mô tả trong từng chặng, Chúa Kitô bị ngã sấp xuống đất do sức nặng của thập giá (3 chặng ngã xuống đất [là nơi thứ III, VI, IX] như chúng ta biết trong chặng đàng thánh giá truyền thống cho tới nay và 4 lần ngã khác trùng với thời điểm Chúa Giêsu gặp gỡ Đức Mẹ, ông Simon, bà Veronica, và các phụ nữ thành Giêrusalem). Một chặng đàng thánh giá nổi tiếng khác được lập nên năm 1515 bởi Romanet Bofin tại Romans vùng Dauphine, theo mẫu của tác phẩm ở Fribourg và một chặng tương tự mọc lên ở Varallo năm 1491 do công của các thầy dòng Phanxicô.
Như thế, cho đến thế kỷ XVI, đã có rất nhiều chặng đàng thánh giá được thiết lập tại Âu châu. Nhưng chủ yếu các chặng đàng thánh giá hiện diện bên ngoài nhà thờ hơn là bên trong vì muốn tạo cho người tham dự cảm giác di chuyển như thể họ đang thực sự đi theo dấu chân của Chúa Giêsu ở Giêrusalem.
Đến thế kỷ XVII, dầu đã có nhiều chặng đàng thánh giá, nhưng không phải mọi nhà thờ và mọi nơi đều có. Lòng sùng kính đi đàng thánh giá lan truyền mạnh mẽ vào thời Trung cổ cùng với các vị thánh đặt nền cho thực hành này như: Bênađô (+ 1153), Phanxicô Assisi (+ 1226) và Bonaventura (+ 1274), nhưng nhất là từ năm 1342, khi các tu sĩ dòng Phanxicô được trao nhiệm vụ coi sóc các địa điểm linh thiêng nơi Đất Thánh.
Việc lan truyền lòng sùng kính và làm các chặng đàng thánh giá nở rộ hơn nữa có liên quan chủ yếu đến ân xá kèm theo cho những ai đi kính viếng đàng thánh giá tại Đất Thánh và tại nhà thờ của dòng Phanxicô vốn là những người được ĐGH Clêmentê VI giao cho nhiệm vụ canh giữ Đất Thánh từ năm 1342. Ferraris đã đề cập đến những địa điểm (chặng) gắn liền với việc ban ân xá như nơi Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ; nơi Chúa Giêsu yên ủi con thành Giêrusalem; nơi quân lính lột áo Chúa; nơi Chúa bị đóng đinh vào thập giá; tại tư dinh Philatôvà tại mộ thánh.
Ảnh tượng mô tả những sự việc trong các chặng đàng thánh giá chỉ phổ biến trong các nhà thờ mãi tới năm 1686, theo thỉnh nguyện của dòng Phanxicô. ĐGH Innôcentê XI đã cho phép các tu sĩ Phanxicô dựng đàng thánh giá trong các nhà thờ của họ. ĐGH cũng tuyên bố rằng tất cả những ân xá ban cho người đi viếng các nơi thánh thiêng ở Thánh Địa cũng được áp dụng cho tu sĩ Phanxicô hay giáo dân liên hệ với dòng này, khi họ viếng các chặng đàng thánh giá đặt trong thánh đường. Năm 1726, ĐGH Bênêđictô XIII mở rộng đặc ân đó cho tất cả mọi người tín hữu. Đến năm 1731, Đức Clêmentê XII nới rộng việc dựng các chặng đàng thánh giá cho mọi nhà thờ miễn là được dựng nên bởi các anh em Phanxicô [và với sự đồng thuận của ĐGM địa phương] đồng thời ấn định con số 14 chặng đàng thánh giá.
Ít lâu sau, vào năm 1742, Đức Bênêđictô XIV mong muốn tất cả các linh mục hãy làm phong phú thánh điện bằng việc dựng chặng đàng thánh giá trong mọi nhà thờ nhưng chưa bao giờ bắt buộc mỗi nhà thờ - nhà nguyện phải có chặng đàng thánh giá.
Năm 1857, các Giám mục Anh quốc nhận được phép của Tòa Thánh để làm các đàng thánh giá với ân xá kèm theo bất cứ ở đâu không có các tu sĩ Phanxicô. Năm 1862, quyền này được ban cho tất cả các giám mục trên thế giới.
(còn nữa)
Lm Giuse Phạm Đình Ái, dòng Thánh Thể (SSS)
EmoticonEmoticon