Thiên Chúa khóc thương khi chúng ta quay lưng lại tình yêu của Ngài

Thiên Chúa khóc thương khi chúng ta quay lưng lại tình yêu của Ngài

Add Comment
Con người luôn bị cám dỗ sống bất trung

Trong bài đọc trích sách Xuất Hành, khi Mose lên núi để gặp Thiên Chúa, dân chúng không đủ kiên nhẫn. 40 ngày là quá lâu đối với họ. Khi Mose xuống núi, dân chúng đã đúc một con bê vàng để thờ. Dân chúng lãng quên Thiên Chúa, Đấng cứu họ. Bởi thế, ngôn sứ Baruc có nói: Chúng đã lãng quên Đấng dẫn đưa chúng.
Thiên Chúa khóc thương khi chúng ta quay lưng lại tình yêu của Ngài

Quên đi Thiên Chúa, Đấng tạo nên đất trời, Đấng làm cho muôn vật sinh trưởng, Đấng đồng hành trong cuộc sống chúng ta. Khi quên đi như thế, chúng ta rơi vào ảo tưởng. Nhiều lần trong các dụ ngôn, Chúa Giêsu kể về người chủ giao vườn nho cho người làm công chăm sóc, nhưng rồi thất bại, vì các tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho. Trong trái tim con người luôn có cám dỗ ấy, luôn có sự bất an ấy. Con người không hài lòng với tình yêu trung thành đặt nơi Thiên Chúa. Trái tim con người luôn có xu hướng bị đưa đẩy tới chỗ không chung thủy.

Thiên Chúa buồn lòng khi con người bất trung

Có ngôn sứ đã trách rằng: đây là một dân không biết kiên trì, không thể chờ đợi, một dân đã ra hư hỏng, vì chúng rời xa Thiên Chúa chân thật mà chạy theo các thần tượng giả dối.

Và như thế, đứng trước sự bất trung của dân, Thiên Chúa buồn lòng và thất vọng… Chúng ta hôm nay cũng là dân của Chúa. Chúng ta biết rất rõ điều gì đang diễn ra trong trái tim mình. Và chúng ta phải lên đường trở về; để không bị trượt dài, không bị lôi cuốn, không chạy theo các thần tượng giả trá của thế gian, không bị lún dần vào con đường bất trung. Hôm nay thật là tốt để nghĩ về sự nỗi buồn của Thiên Chúa. Bản thân mỗi người thử hỏi Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin nói cho con biết, Chúa có buồn về con không, có thất vọng về con không?”. Trong chừng mừng nào đó, có thể Chúa sẽ nói là có. Nhưng hãy cứ nghĩ và hỏi Chúa câu hỏi ấy.

Con có đang xa cách Chúa không?

Thiên Chúa là người Cha nhân hiền với trái tim nhân hậu. Chúng ta hãy nhớ về cảnh Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem. Và chúng ta tự hỏi: Chúa có đang khóc vì tôi không? Chúa có đang buồn vì tôi không? Tôi có đang chạy theo các thần tượng giả mà sống xa cách Chúa không? Nếu chúng ta đang làm nô lệ cho các ngẫu tượng giả dối, thì Thiên Chúa đang khóc thương cho ta.

Hôm nay chúng ta nghĩ về nỗi buồn của Thiên Chúa. Ngài buồn, vì dù Ngài yêu mến chúng ta, dù Ngài kiếm tìm tình yêu, mà chúng ta không đáp lại, mà chúng ta không yêu mến Ngài. Chúng ta chạy xa Thiên Chúa, Đấng tác thành chúng ta. Chúng ta nên nghĩ về điều ấy trong Mùa Chay này. Điều ấy giúp ích cho chúng ta. Đó là điều chúng ta nên làm hằng ngày khi xét mình hồi tâm. Chúng ta thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã có rất nhiều ước mơ dành cho con, nhưng con lại rời xa Ngài, xin nói cho con biết ở đâu và cách nào để con bắt đầu con đường trở về…” Điều luôn làm cho ta ngạc nhiên, là Ngài luôn đợi chờ chúng ta, như người cha nhân hậu đợi chờ đứa con hoang đàng trở về. Khi đứa con trở về, người cha đã đợi chờ anh từ lâu và nhìn thấy anh ngay từ đàng xa.

(Tứ quyết SJ,  RadioVaticana 30.03.2017)
Thư Đức Thánh Cha về Đại Hội kỳ 9 các Gia đình Công Giáo

Thư Đức Thánh Cha về Đại Hội kỳ 9 các Gia đình Công Giáo

Add Comment
Thư Đức Thánh Cha về Đại Hội kỳ 9 các Gia đình Công Giáo - VATICAN. ĐTC kêu gọi đào sâu suy tư và chia sẻ về nội dung Tông Huấn ”Amoris laetitia” (Niềm vui yêu thương), trong dịp chuẩn bị và tiến hành Đại Hội kỳ 9 các gia đình Công Giáo thế giới.

Đại Hội sẽ tiến hành từ ngày 21 đến 26-8 năm 2018, tại Dublin thủ đô Cộng hòa Ailen, về đề tài: ”Tin Mừng gia đình, niềm vui cho thế giới”.  ĐTC đưa ra lời kêu gọi trên đây trong thư gửi các gia đình Công Giáo thế giới được công bố trong cuộc họp báo sáng hôm 30-3-2017, của ĐHY Kevin Joseph Farrell, người Ai Len, Tổng trưởng Bộ giáo dân, gia đình và sự sống, cùng với Đức Cha Diarmuid Martin, TGM giáo phận Dublin.
Thư Đức Thánh Cha về Đại Hội kỳ 9 các Gia đình Công Giáo

 ĐTC viết: ”Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tin Mừng có tiếp tục là niềm vui cho thế giới hay không? Gia đình có tiếp tục là Tin Mừng cho thế giới ngày nay hay không?”. Ngài xác quyết là có và khẳng định rằng ”Gia đình chính là sự khẳng định của Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ đi từ tình yêu gia đình mới có thể biểu lộ, phổ biến và tái tạo tình thương của Thiên Chúa trong thế giới. Nếu không có tình yêu thì không thể sống như con cái Thiên Chúa, như vợ chồng, như cha mẹ và anh chị em”.

 Cụ thể hơn, ĐTC giải thích rằng ”các gia đình cần phải tự hỏi xem mình có thường sống bởi tình yêu, cho tình yêu và trong tình yêu hay không. Điều này có nghĩa là hiến thân, tha thứ, không dạy đời, ân cần săn sóc và tôn trọng người bạn đường của mình. Đời sống gia đình sẽ tốt đẹp hơn nếu mỗi ngày họ sống 3 lời đơn sơ: xin làm ơn, cám ơn, và xin lỗi. Mỗi ngày chúng ta cảm nghiệm sự dòn mỏng và yếu đuối, vì thế tất cả chúng ta, các gia đình và các mục tử, cần có sự tái khiêm tốn để ước muốn học hỏi, và được giáo dục, giúp đỡ và được giúp đỡ, đồng hành, phân định và hội nhập tất cả những người thiện chí”.

ĐTC tái bày tỏ mong ước một ”Giáo Hội đi ra ngoài, không tự tham chiếu, một Giáo Hội không rời xa những vết thương của con người, nhưng là một Giáo hội từ bi thương xót, loan báo trọng tâm mạc khải của Thiên Chúa Tình Thương chính là Lòng Thương Xót. Chính lòng thương xót này đổi mới chúng ta trong tình yêu.. Chúng ta biết có bao nhiêu gia đình Kitô là nơi sống và là chứng nhân về lòng thương xót. Sau năm thánh lòng thương xót họ càng thương xót hơn và cuộc gặp gỡ tại Dublin cò thể cống hiến những dấu chỉ cụ thể về lòng thương xót”.

Sau cùng, ĐTC ủy thác cho ĐHY Farrell và các cộng sự viên nhiệm vụ xác định một cách đặc thù giáo huấn của Tông Huấn Niềm vui Yêu thương qua đó, Giáo Hội muốn rằng các gia đình luôn tiến hành, trong cuộc lữ hành nội tâm là một sự biểu hiện cuộc sống đích thực”.

 Họp báo

Trong cuộc họp báo, Đức TGM Diarmuid Martin cho biết chương 8 của Tông Huấn ”Amoris laetitia” bàn về các gia đình mong manh hơn (ly dị, ly thân, tái hôn dân sự, vv..) không thể chiếm vị trí trung tâm trong việc chuẩn bị Đại hội gia đình thế giới ở Dublin. ”Phải nói về các gia đình bị tấn công, chúng ta không thể có một lối tiếp cận ý thức hệ, nhưng ta phải tự hỏi làm sao đương đầu với các thách đố? Làm sao gia đình có thể sống trong xã hội này? Nhất là tại một số vùng nghèo, người ta hãnh diện vì có con cái, là gia đình, điều này xảy ra ở Ai Len, nhưng không phải chỉ ở nước này mà thôi, cả ở Roma nữa, và Giáo Hội phải để ý đến điều đó.. Dầu sao điều đầu tiên không phải là nhiều giáo lý về gia đình, nhưng là tình yêu đối với con cái, như Chúa Giêsu đã nói”.

ĐHY Farrell nhận xét rằng ”nhiều khi người ta chỉ nói về một khía cạnh của Tông huấn ”Amoris laetitia” (ngài ám chỉ đến chương 8), mà ít để ý đến giáo huấn của toàn văn kiện, nhất là chương 2, 3 và 4 cũng rất quan trọng. Trong Giáo Hội, có những gia đình ở nhiều nơi với các não trạng khác nhau, điều quan trọng là giái thích đời sống hôn nhân; chúng ta cần đồng hành với các gia đình trong giai đoạn tiền hôn nhân và rồi trong toàn thể đời sống hôn nhân.. Chúng ta phải luôn đồng hành và hiểu, chúng ta là Giáo Hội. Nhiều gia đình không đi nhà thờ, xa lìa Giáo Hội và việc chuẩn bị cho Đại hội ở Dublin cũng phải để ý đến những điều đó” (SD, Ansa 30-3-2017)

(G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana 30.03.2017)
Các chặng đàng thánh giá (P1)

Các chặng đàng thánh giá (P1)

Add Comment
Đàng thánh giá theo tiếng La-tinh là Via Crucis (đàng / đường thánh giá) hay Via Dolorosa (đàng / đường khổ nạn)thường gồm 14 các ảnh tượng hay phù điêu được đặt để trong một không gian nào đó và làm thành 14 chặng.

TỪ NGỮ

Đàng thánh giá theo tiếng La-tinh là Via Crucis (đàng / đường thánh giá) hay Via Dolorosa (đàng / đường khổ nạn) thường gồm 14 các ảnh tượng hay phù điêu được đặt để trong một không gian nào đó và làm thành 14 chặng. Theo truyền thống, mười bốn chặng này ghi lại các biến cố quan trọng nhất trong hành trình của Chúa Kitô từ lúc ngài bị kết án trước quan tòa Philatô cho đến khi được mai táng trong mồ.

Trong khi hạn từ “đường thánh”(Via Sacra) được đề cập hồi thế kỷ XII thì hạn từ “chặng” (station) lần đầu tiên được sử dụng bởi một người Anh tên là William Wey vào thế kỷ XV nhằm ám chỉ một nơi thánh mà những người hành hương dừng lại để suy niệm (William Wey đã đi viếng Đất Thánh trong những năm 1458– 1462).
 
Các chặng đàng thánh giá (P1)

Hạn từ ‘Chặng đàng thánh giá’ có nguồn gốc từ chính phương pháp biểu lộ lòng sùng kính này, tức là các tín hữu - cá nhân hay từng nhóm - sẽ di chuyển như một cuộc hành hương nhỏ và thiêng liêng từ chặng này qua chặng kia rồi đứng lại [hay quy tụ] tại một trong 14 nơi (chặng) khác nhau để cầu nguyện hay suy gẫm về những biến cố trong cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Nhiều bản văn đã được soạn thảo để các tín hữu dùng khi đi viếng đàng thánh giá, nhưng bản kinh của thánh Anphongsô Ligouri (năm 1787) vẫn là phổ biến nhất. Khi di chuyển từ chặng này qua chặng kia, người ta có thói quen hát một đoạn thánh ca thời Trung cổ trong bàiStabat Mater.

LỊCH SỬ - HÌNH THỨC 14 CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ

Từ ban đầu, các chặng đàng thánh giá thường được đặt tại các hành lang tu viện hay ngoài trời (dọc theo những con đường tiến đến nhà thờ hay đền thánh). Các chặng đàng thánh giá cũng thường được thiết lập tại một khu vực mà các tín hữu có thể dễ dàng thực thi lòng sùng kính nhằm tôn vinh cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô.

Lòng sùng kính này bắt nguồn từ các tín hữu thời sơ khai khi họ đi kính viếng và theo chân Chúa Giêsu trong hành trình Ngài chịu khổ hình và chịu chết ở Giêrusalem vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Truyền thống cho rằng, Đức Mẹ vẫn hằng ngày viếng thăm những nơi diễn ra cuộc thương khó của con mình.
Các chặng đàng thánh giá (P1) - Ảnh minh hoạ 2
Những đoàn hành hương đạo đức đến Giêrusalem trở nên đông đảo hơn, nhất là trong Tuần Thánh, sau khi hoàng đế Constantinô cho xây ngôi nhà thờ Anastasis vào năm 335 ngay trên địa điểm tương truyền là ngôi mộ Chúa Giêsu, cũng như khi xuất hiện thánh đường Martyrium trên đồi Canvê. Thánh Giêrônimô (342-420) xác nhận rằng đám đông các tín hữu đến từ những quốc gia khác nhau vẫn hành hương đến kính viếng những nơi thánh và bước theo đường thánh giá Chúa Giêsu. Sự sùng mộ này cũng được làm chứng bởi những khách hành hương nổi tiếng hồi thế kỷ IV trong những trình thuật của họ, đặc biệt là cuốn Hành trình của Burdigalense (Itineraium Burdigalense) và Hành trình của Egeriae (Itineraium Egeriae).

Về phương diện thực hành, các tín hữu dừng tại mỗi “địa điểm thánh” để suy niệm, thinh lặng và cầu nguyện về hành trình khổ nạn của Chúa Giêsu từ vườn Giệtsimani (Mc 14, 32) cho đến Núi Sọ, nơi Chúa bị đóng đinh giữa hai tên trộm (Lc 23, 33; Mc 15, 22) và tới khu vườn, nơi Người được chôn cất trong hầm mộ khoét trong khối đá (Ga 19, 40-42).  Chính những người hành hương này khi trở về nhà vẫn tiếp tục thực hành lòng sùng kính đó. Khi việc đi hành hương tới Thánh Địa bị ngăn trở do người Hồi giáo chiếm cứ Palestine, phong trào hành hương chuyển qua hướng thiêng liêng, nghĩa là họ hành hương tại địa phương với những di vật được đem từ các nơi thánh ở Giêrusalem về và tại những “nơi thánh” được xây dựng ở châu Âu mô phỏng theo những gì họ đã chứng kiến nơi Đất Thánh.

Dù việc mô phỏng các nơi thánh ở Giêrusalem đã diễn ra ngay từ thế kỷ V, nhưng đến thế kỷ XV, người ta thấy nở rộ hơn nhiều việc sao chép như thế tại khoảng 30 địa điểm khác nhau nằm trong các trung tâm tâm linh ở Âu châu. Chẳng hạn, chân phước Alvarez (1420) đã cho xây một loạt các nhà nguyện nhỏ tại tu viện Đaminh vùng Cordova với những chặng đàng tách biệt; cùng thời gian đó, chân phước Eustochia thuộc dòng Clara cũng cho lập các chặng đàng thánh giá tương tự tại tu viện vùng Messina; rất nhiều những chặng đàng thánh giá khác mọc lên tại G#rlitz do công của G. Emmerich vào khoảng năm 1465 và tại Nuremburg, do công của Ketzel (năm 1468). 
 

Peter Sterckx cũng bắt chước làm như vậy tại Louvain năm 1505 và tại St. Getreu vùng Bamberg (1507). Còn ở Nuremburg, tác phẩm được điêu khắc bởi Adam Krafft, cũng như một vài tác phẩm khác, bao gồm trong đó tác phẩm “7 chặng” nổi tiếng như là “7 lần ngã xuống” bởi vì mô tả trong từng chặng, Chúa Kitô bị ngã sấp xuống đất do sức nặng của thập giá (3 chặng ngã xuống đất [là nơi thứ III, VI, IX] như chúng ta biết trong chặng đàng thánh giá truyền thống cho tới nay và 4 lần ngã khác trùng với thời điểm Chúa Giêsu gặp gỡ Đức Mẹ, ông Simon, bà Veronica, và các phụ nữ thành Giêrusalem). Một chặng đàng thánh giá nổi tiếng khác được lập nên năm 1515 bởi Romanet Bofin tại Romans vùng Dauphine, theo mẫu của tác phẩm ở Fribourg và một chặng tương tự mọc lên ở Varallo năm 1491 do công của các thầy dòng Phanxicô.
 
Các chặng đàng thánh giá (P1) - Ảnh minh hoạ 3

Như thế, cho đến thế kỷ XVI, đã có rất nhiều chặng đàng thánh giá được thiết lập tại Âu châu. Nhưng chủ yếu các chặng đàng thánh giá hiện diện bên ngoài nhà thờ hơn là bên trong vì muốn tạo cho người tham dự cảm giác di chuyển như thể họ đang thực sự đi theo dấu chân của Chúa Giêsu ở Giêrusalem.

Đến thế kỷ XVII, dầu đã có nhiều chặng đàng thánh giá, nhưng không phải mọi nhà thờ và mọi nơi đều có. Lòng sùng kính đi đàng thánh giá lan truyền mạnh mẽ vào thời Trung cổ cùng với các vị thánh đặt nền cho thực hành này như: Bênađô (+ 1153), Phanxicô Assisi (+ 1226) và Bonaventura (+ 1274), nhưng nhất là từ năm 1342, khi các tu sĩ dòng Phanxicô được trao nhiệm vụ coi sóc các địa điểm linh thiêng nơi Đất Thánh. 

Việc lan truyền lòng sùng kính và làm các chặng đàng thánh giá nở rộ hơn nữa có liên quan chủ yếu đến ân xá kèm theo cho những ai đi kính viếng đàng thánh giá tại Đất Thánh và tại nhà thờ của dòng Phanxicô vốn là những người được ĐGH Clêmentê VI giao cho nhiệm vụ canh giữ Đất Thánh từ năm 1342. Ferraris đã đề cập đến những địa điểm (chặng) gắn liền với việc ban ân xá như nơi Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ; nơi Chúa Giêsu yên ủi con thành Giêrusalem; nơi quân lính lột áo Chúa; nơi Chúa bị đóng đinh vào thập giá; tại tư dinh Philatôvà tại mộ thánh.

Ảnh tượng mô tả những sự việc trong các chặng đàng thánh giá chỉ phổ biến trong các nhà thờ mãi tới năm 1686, theo thỉnh nguyện của dòng Phanxicô. ĐGH Innôcentê XI đã cho phép các tu sĩ Phanxicô dựng đàng thánh giá trong các nhà thờ của họ. ĐGH cũng tuyên bố rằng tất cả những ân xá ban cho người đi viếng các nơi thánh thiêng ở Thánh Địa cũng được áp dụng cho tu sĩ Phanxicô hay giáo dân liên hệ với dòng này, khi họ viếng các chặng đàng thánh giá đặt trong thánh đường. Năm 1726, ĐGH Bênêđictô XIII mở rộng đặc ân đó cho tất cả mọi người tín hữu. Đến năm 1731, Đức Clêmentê XII nới rộng việc dựng các chặng đàng thánh giá cho mọi nhà thờ miễn là được dựng nên bởi các anh em Phanxicô [và với sự đồng thuận của ĐGM địa phương] đồng thời ấn định con số 14 chặng đàng thánh giá.
 

Ít lâu sau, vào năm 1742, Đức Bênêđictô XIV mong muốn tất cả các linh mục hãy làm phong phú thánh điện bằng việc dựng chặng đàng thánh giá trong mọi nhà thờ nhưng chưa bao giờ bắt buộc mỗi nhà thờ - nhà nguyện phải có chặng đàng thánh giá. 

Năm 1857, các Giám mục Anh quốc nhận được phép của Tòa Thánh để làm các đàng thánh giá với ân xá kèm theo bất cứ ở đâu không có các tu sĩ Phanxicô. Năm 1862, quyền này được ban cho tất cả các giám mục trên thế giới.

(còn nữa)

Lm Giuse Phạm Đình Ái, dòng Thánh Thể (SSS)
15 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản

15 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản

Add Comment
Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc cử hành thánh lễ tạ ơn 15 năm thành lập chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản (2002-2017) tại nhà thờ Chí Hòa

PHÓNG SỰ ẢNH

Thánh lễ tạ ơn 15 năm thành lập chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản (2002-2017) được cử hành vào sáng 29.3.2017 tại nhà thờ Chí Hòa (TGP. TPHCM) do Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc chủ sự, cùng đồng tế có 8 linh mục trong và ngoài hạt Chí Hòa. Đông đảo tu sĩ các hội dòng và hơn 300 giáo  dân đã tham dự thánh lễ.

 
15 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản

Chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản do Đức Hồng y GB Phạm Minh Mẫn đề xướng nhằm hỗ trợ việc truyền giáo tại  Nhật Bản, hiện do linh mục Đaminh Cao Sơn Thân, Dòng Tên (SJ), đặc trách.
15 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 215 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 315 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 415 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 515 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 615 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 715 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 815 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 915 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1015 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1115 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1215 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1315 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1415 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1515 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 1615 năm chương trình Ơn gọi truyền giáo Nhật Bản - Ảnh minh hoạ 17
Hùng Luân - Ngọc Lan
Nguồn tin: cgvdt.vn:
‘Vị triệu phú Domino Pizza, cống hiến đời mình cho Giáo hội’

‘Vị triệu phú Domino Pizza, cống hiến đời mình cho Giáo hội’

Add Comment
Có lẽ tôi là người hay có thành kiến, và tôi thường không quan tâm đến tiểu sử của đa số các triệu phú. Tuy nhiên, tập sách Monaghan: A Life (Monaghan: Một Cuộc đời) của Joseph Pearce thì khác. Không phải chỉ vì Tom Monaghan, người sáng lập Pizza Domino là một người Công giáo; mà còn vì ông xem sự giàu có của mình chỉ là phương tiện, để thúc đẩy sự phát triển một nền văn hóa Công giáo đích thực, mạnh mẽ ở Mỹ.

Có được bao nhiêu người rất giàu có, kể cả người Công giáo, khi được hỏi về mục tiêu của họ thì đã trả lời một cách đơn giản rằng: “Mục tiêu của tôi là luôn luôn sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa?”
 

Nhà viết tiểu sử của ông, Joseph Pearce, đã liên kết tên ông với cuộc đời của những nhà văn Công giáo và Kitô giáo như, Hilaire Belloc, GK Chesterton và CS Lewis. Được cảm hứng từ việc đọc tiểu sử đầy thiện cảm của một triệu phú, người không bao giờ bay ghế hạng nhất nhưng luôn đặt chỗ ngồi giữa ít ai thích trên máy bay, “bởi sẽ có nhiều cơ hội hơn để loan báo tin mừng đến những hành khách đồng hành với ông”, tôi rất muốn biết thêm về con người có cá tính khác thường này.

Pearce viết, “Hiếm có người nào làm tốt hơn Tom Monaghan trong việc định hình Giáo hội ở Mỹ trong 30 năm qua”? Ông cho rằng, ảnh hưởng của Monaghan đối với Giáo hội ở Hoa Kỳ là “không thể đo lường được, bởi hàng triệu đô la mà ông chi cho các dự án, bao gồm thành lập Đại học Ave Maria, Trường Luật Ave Maria, Legatus (tổ chức các lãnh đạo doanh nghiệp Công giáo), Đài phát thanh Ave Maria và nhiều dự án lớn khác.”

Đối với một người đàn ông có học vấn chắp vá, Monaghan đã chịu bao nhiêu ảnh hưởng bởi những cuốn sách nhất định, khiến ông lạc lối tại những thời điểm quan trọng trong cuộc đời? Pearce chỉ ra rằng: “Tom không phải là một người mê đọc sách, nhưng chương sách nói về ‘kiêu ngạo’ trong quyển Mere Christianity của CS Lewis, đã có tác động làm thay đổi cuộc đời ông, là động lực giúp ông cống hiến gia tài đáng kể của mình để củng cố Giáo hội ở Mỹ.”

Quyển tiểu sử cũng mô tả thời thơ ấu thiếu thốn tình cảm và vật chất của Monaghan. Và tầm quan trọng của những trải nghiệm khắc nghiệt thời thơ ấu ấy, đến thành công sau này của ông. Pearce tin rằng chúng ta nên “kính trọng và ngưỡng mộ với những người, tuy gặp rất nhiều khó khăn trong đời những vẫn gặt hái được thành công, bất chấp những trở ngại dường như không vượt qua được.”

Ông kể thêm: “Monaghan thành trẻ mồ côi sau khi mất cha và bị mẹ bỏ rơi, rồi sau đó trở thành người sáng lập một trong những chuỗi nhà hàng lớn nhất trên thế giới, cũng như sở hữu đội bóng chày Detroit Tigers, giành đượ chiến thắng giải thưởng đáng thèm muốn World Series. Giấc mơ đã thành sự thật.”

“Ông còn tiến xa hơn những thành công trần thế, khi hiểu được rằng mình cần dâng hiến đời mình và sự giàu có cho lợi ích của Giáo hội.” Pearce cho biết, Monaghan còn tự nhận xét về mình rằng: “Tôi đã chỉ làm được một phần nhỏ, những gì mà tôi có thể làm và nên làm.” Người viết tiểu sử trả lời: “Tất cả chúng ta đều có thể nhìn lại đời mình và nhận ra đáng lẽ chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa. Tom cũng thế, ông cũng có những sai lầm.”

Điều gì ấn tượng nhất nơi tính cách của Monaghan? Pearce đáp: “Một trong những đặc quyền và niềm vui của một người viết tiểu sử là cơ hội giúp người đó tìm hiểu vấn của mình tốt hơn. Tôi cảm thấy đặc quyền này khi biết Tom. Ông ấy cũng thiếu sót, giống như hầu hết chúng ta, nhưng tôi đánh giá cao những điểm mạnh tiềm ẩn của ông ấy, như một người chồng, một người cha và một người bạn, cũng như những điểm yếu của ông ta. Thật là vinh dự khi biết ông ấy thông qua việc viết tiểu sử của và vinh dự làm ông ấy nổi tiếng hơn.”

Na Trần