Hiển thị các bài đăng có nhãn . AMEN TV. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn . AMEN TV. Hiển thị tất cả bài đăng
Đức Thánh Cha kêu gọi bỏ thành kiến giữa Công Giáo - Tin Lành

Đức Thánh Cha kêu gọi bỏ thành kiến giữa Công Giáo - Tin Lành

Add Comment
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 31-3-2017, dành cho 150 học giả quốc tế tham dự Hội nghị do Ủy ban Tòa Thánh về khoa sử học tổ chức từ ngày 29-3-2017 về đề tài ”Luther 500 năm sau. Đọc lại cuộc cải cách của Luther trong bối cảnh lịch sử Giáo Hội”.
 
Đức Thánh Cha kêu gọi bỏ thành kiến giữa Công Giáo - Tin Lành

 Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nói: ”Các tín hữu Tin Lành và Công Giáo cùng nói về Luther do sáng kiến của một cơ quan Tòa Thánh, một Hội nghị như vậy là điều không thể tưởng tượng được cách đây ít lâu: ở đây chúng ta động chạm một cách cụ thể những thành quả hoạt động của Chúa Thánh Linh, Đấng vượt lên trên mọi biên giới và biến những xung đột thành cơ hội để tăng trưởng trong tình hiệp thông”.

 ĐTC vui mừng vì Hội nghị kỷ niệm này mang lại cơ hội cho các học giả đến từ nhiều tổ chức cùng nhìn các biến cố lịch sử, đào sâu về con người của Luther và sự phê bình của ông chống lại Giáo Hội thời ấy, cũng như chức vụ Giáo Hoàng, những điều ấy chắc chắn sẽ góp phần vượt thắng bầu không khí nghi kỵ và cạnh tranh nhau, đã kéo dài quá lâu trong tương quan giữa hai bên.   Theo ĐTC, ”sự nghiên cứu kỹ lưỡng và nghiêm túc, không vướng thành kiến và bút chiến ý thức hệ, giúp các Giáo Hội đang đối thoại ngày nay, phân định và đón nhận những gì là tích cực và hợp pháp trong cuộc cải tổ, và xa tránh những sai lầm, phóng đại, thất bại, nhìn nhận những tội lỗi đã đưa tới chia rẽ”.

 Và ĐTC cũng khẳng định rằng ”Tất cả chúng ta đều biết là không thể thay đổi quá khứ, nhưng 50 năm sau cuộc đối thoại đại kết giữa Công Giáo và Tin lành, chúng ta có thể thực hiện một sự thanh tẩy ký ức, để có thể ”kể lại lịch sự một cách khác”, không mang vết tích oán hận vì những vết thương đã phải chịu, làm cho sự nhận xét về nhau bị lệch lạc”.

 Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, Cha Bernard Ardura, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về khoa sử học, cho biết điều quan trọng nhất của Hội nghị này là xem xét coi khi đọc lại cuộc cải cách người ta có thể khám phá những điều hiểu lầm hay không. Ví dụ đạo lý về ơn công chính hóa mà Công Giáo và Tin Lành Luther đã đạt tới một sự đồng thuận, qua đó người ta hiểu rằng tuy có những ngôn từ khác, chúng ta có cùng một sự hiệp thông trong đức tin. Ngoài ra có những khía cạnh khác như sự cấu thành chính Giáo Hội, vai trò của thừa tác vụ trong Giáo Hội, sự kế truyền tông đồ, chỗ đứng của các bí tích. Đó là những vấn đề còn bỏ ngỏ. (SD 31-3-2017)

 (G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana 31.03.2017)

Thánh Thể là lương thực duy nhất của chị Marthe Robin trong hơn 50 năm

Add Comment
Chị đã minh chứng rằng người ta có thể sống chỉ nhờ vào lòng mến. Marthe Robin chào đời vào ngày 13 Tháng Ba 1902 tại Drome, nước Pháp. Chị là người con thứ sáu và là út gái của cặp vợ chồng nông dân là ông Joseph Robin và bà Amelie-Celestine.
 
Cha mẹ chị làm việc chăm chỉ, và so với hiện nay, có thể được xếp vào tầng lớp trung lưu. Dù cha mẹ chị là người Công giáo nhưng lại chẳng biết lễ lạy, nhà thờ nhà thánh là gì. Điều này ảnh hưởng đến đời sống đạo của con cái, nhưng tuyệt nhiên không ảnh hưởng chút nào đến Marthe. Chị đã được Thiên Chúa lôi cuốn và đã có thói quen cầu nguyện từ khi còn rất nhỏ.
 

Chị Marthe bị bệnh nặng lúc mới hai tuổi. Cả chị và chị gái Clemence đều bị sốt thương hàn. Clemence đã không qua khỏi. Còn chị Marthe sống sót nhưng đau yếu liên miên luôn từ dạo đó. Chị đã phải nghỉ học vào năm 13 tuổi để phụ giúp công việc nông trại của gia đình. Tuy nhiên, chị vẫn tham gia các lớp học giáo lý và đã lãnh nhận bí tích Thêm Sức năm 1911, và Rước Lễ Lần Đầu vào ngày 15 Tháng Tám năm 1912 (ND: Hồi đó trẻ em thường lãnh nhận bí tích Thêm Sức trước khi Rước Lễ Lần Đầu).

Đau yếu liên miên từ khi bị sốt thương hàn, dầu vậy có vẻ, trong những năm niên thiếu, chị vẫn sống rất hạnh phúc. Chị vui tươi, thanh thản, ưa múa nhảy ca vũ và khoái chí cười vang khi nghe những mẩu chuyện tiếu lâm bà kể. Nhưng vào năm 1918, chị ngã bệnh lần nữa và phải nằm liệt giường. Các bác sĩ cho rằng có thể chị bị u não hoặc là bị viêm não. Họ không tìm ra chứng bệnh của chị, rồi một vị bác sĩ đã chẩn đoán chị bị mắc chứng Hysteria (chứng dễ bị kích động, cuồng loạn). Thế là chị đã bị “dán nhãn” luôn từ đó. | Báo Công Giáo

Đến năm 1928, phần thân dưới của chị Marthe bị liệt và vào năm 1929 thì hai cánh tay. Đây không phải là di chứng của chứng Hysteria. Rốt cuộc, dù chẳng có bằng chứng nào, chị lại được cho là bị “Viêm não Lethargica”, một dạng viêm não hiếm gặp. Nhưng chẩn đoán này thực ra chưa bao giờ được xác nhận hay chứng minh rõ ràng.

Chị Marthe phải sống trong một phòng ngủ tối tăm vì mẫn cảm với ánh sáng. Năm 28 tuổi, chị bị tê liệt và phải nằm liệt giường. Mới đầu chị vẫn còn có thể dùng ngón tay cái với ngón trỏ và có thể lần hạt. Nhưng sau đó, rốt cuộc, ngay cả điều đó chị cũng không làm được. Tất cả những gì chị có thể làm là lắc lắc đầu. Chị chẳng thể ăn hay thậm chí uống một ngụm nước nào. Các bác sĩ đã cố gắng ép nước xuống nhưng nước lại trào ra mũi. Tuy nhiên, có một điều mà cơ thể của chị có thể tiếp nhận, hấp thu được. Đó là Thánh Thể.

 

Hồi mới bị bệnh, chị Marthe đã được Đức Mẹ hiện ra và an ủi chị rất nhiều. Năm 1928, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với chị và cuộc hiện ra này đã biến đổi chị mãi mãi. Chính lúc đó, và từ đó trở đi chị quyết định tận hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Chúa” và dâng những đau khổ trong sự kết hiệp mật thiết với Ngài bằng lời cầu nguyện và lòng mến”. Chị đắm chìm trong suy niệm, suy gẫm về cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô, đồng thời liên lỉ thân thưa, gần gũi với Đức Mẹ.

Từ những năm 1930 trở đi, lương thực duy nhất nuôi sống chị chính là Chúa Giêsu Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Chị không thể dùng được bất kỳ loại thức ăn hay nước uống nào khác. Vào các ngày Thứ Sáu, khi chị Rước Lễ, chị sẽ sống lại cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Ban đầu điều đó chỉ diễn ra trong bình diện thiêng liêng nhưng sau đó đã diễn ra thật sự nơi thân xác chị. Chị Marthe đã được in năm dấu thánh cách tỏ tường. Thiên Chúa đã đưa chị vào trong số những người được tuyển chọn như thánh Phanxicô, thánh Catarina thành Siena và thánh Padre Piô.

Tam nhật tưởng niệm cuộc Thương khó, Tử nạn và Phục sinh của Chúa xảy ra nơi chị Marthe, với các thương tích máu tươi đầm đìa ngày Thứ Sáu, khô lại vào Thứ Bảy, và sạch vết vào ngày Chúa Nhật. Thật vậy, chị Marthe Robin đã kinh nghiệm về Bí tích Thánh Thể trong một cách thức lạ lùng. Thánh Thể chính là của ăn nuôi sống chị, chính là cuộc sống của chị, cho đến khi chị qua đời năm 1981, việc này kéo dài 51 năm.

 

Dù chưa học xong tiểu học, nhưng chị Marthe có thể giúp cho nhiều người đến thăm chị bằng những lời lẽ đầy khôn ngoan. Chị có tấm lòng trắc ẩn và một trí nhớ đặc biệt. Trong suốt cuộc đời mình, ước tính có hơn 100.000 người đã đến thăm để được chị linh hướng, hướng dẫn. Chị đã nhận cầu nguyện cho hàng ngàn lời xin, hàng ngàn ý chỉ cầu nguyện; tầm ảnh hưởng của chị đã vượt ra khỏi căn phòng nhỏ bé của mình.

ĐTC Phanxicô đã nâng chị Marthe Robin lên bậc Đáng Kính vào ngày 07 Tháng Mười Một 2014. Hiện nay, trung bình hàng năm, có khoảng 40.000 người thăm viếng và cầu nguyện tại căn nhà mà Đấng Đáng Kính Marthe đã sống và qua đời. Người ta thường trích lại câu nói này của chị Marthe: “Tôi muốn hô lên thật lớn tiếng với những ai hỏi liệu tôi ăn uống được gì không, rằng tôi được ăn uống, được thưởng thức no thỏa hơn họ, vì tôi được dưỡng nuôi bằng Thánh Thể là chính Mình và Máu thánh của Chúa Giêsu. Tôi muốn nói với họ rằng, chính họ là thủ phạm kềm hãm và cản trở hiệu quả của thần lương này nơi mình.

Larry Peterson
Chuyển dịch: Sr. Vân Anh (Nhóm phiên dịch Mai Khôi)
http://aleteia.org
Nguồn tin: daminhvn.net
Phát hiện cung điện của một vị vua được nói tới trong Kinh Thánh, bên dưới một lăng mộ bị IS phá huỷ

Phát hiện cung điện của một vị vua được nói tới trong Kinh Thánh, bên dưới một lăng mộ bị IS phá huỷ

Add Comment
Các nhà khảo cổ lần theo các đường hầm do các chiến binh Hồi giáo đã bới đào ra, trong khi chúng lùng kiếm kho báu.


Chú thích hình: Ông Iraqi Salem Harush Kadori, 68 tuổi, vệ binh bảo vệ thành phố cổ Hatra (phía nam Mosul gần biên giới Syria thuộc mạn Tây Bắc Iraq), chỉ vào một trong những ngôi đền với kiểu trang trí Đông phương, kết hợp với nét kiến trúc Hy Lạp và La Mã. Chiến tranh Iraq và các cuộc cướp phá sau đó đã không tác động đến thành cổ Hatra, là thành phố có nhiều đền thờ nằm trong vùng sa mạc, mong chờ một tương lai tươi sáng, đúng như tâm sự và ước mong của ông Salem, người bảo vệ chúng. AFP PHOTO/Philippe DESMAZES / AFP PHOTO / PHILIPPE DESMAZES

Các nhà khảo cổ Iraq đã có một khám phá bất ngờ bên dưới đống đổ nát của lăng mộ tiên tri Giona, bị IS phá huỷ hồi năm 2014: cung điện của vua Xan-khê-ríp (Sennacherib), vương quốc Át-sua (Assyrian) thế kỷ VI tcn.

Sau khi quân đội Iraq tái chiếm khu vực gần Mosul vào tháng trước, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra cung điện này, trong quá trình đánh giá thiệt hại tại khu vực được cho là lăng mộ của tiên tri Giona. Cung điện 2300 năm tuổi đã bị IS lùng sục đào bới. IS được cho là đã đào những đường hầm sâu bên dưới ngôi mộ, rất có thể chúng làm vậy là để vơ vét và đem bán các cổ vật ra chợ đen.

Các cuộc khai quật được tiến hành, vào năm 1852 bởi thủ hiến người Ottoman của thành Mosul, và vào những năm 1950 do Bộ Khảo cổ và Di tích Iraq chủ trì, tất cả đã không khai quật đủ sâu nên không tìm ra được cung điện. Trong những phát hiện mới này, phải kể đến một phiến đá cẩm thạch có khắc chữ hình nêm là thủ bút của vua Esarhaddon, có từ thời vương quốc Át-sua năm 672 tcn.

Giáo sư Eleanor Robson, chủ tịch Viện Nghiên cứu Iraq (Anh quốc), nói với tờ The Telegraph: “Không chỉ là những viên đá trang trí, nơi đây còn là một kho dữ liệu lịch sử khổng lồ. Rốt cuộc chúng ta đã có thể vẽ ra một bản phác thảo các báu vật của đế chế vĩ đại đầu tiên trên thế giới này, ngay tại giai đoạn cực thịnh của nó.”

Bà Layla Salih, nhà khảo cổ học Iraq tin rằng các phần tử vũ trang ISIS có thể đã cướp đi hàng trăm cổ vật có giá trị trước khi lực lượng Iraq giành lại khu vực này. “Tôi rất tiếc khi nghĩ đến việc IS đã tìm được rất nhiều thứ quý giá trước khi chúng tôi đến”, bà nói với Telegraph. “Chúng tôi tin rằng bọn chúng đã lấy và đã bán đi nhiều món cổ vật, như các bình gốm và những cổ vật bé hơn. Nhưng những gì bọn chúng vứt lại sẽ được nghiên cứu và chắc chắn giúp chúng ta biết thêm rất nhiều điều về giai đoạn này”.

Cuộc chiến mà vua Xan-khê-ríp chủ chiến chống lại vương quốc Giuđa đã được ghi chép trong Thánh Kinh:

“Sau nghe biết các sự việc và lòng trung thành của vua Khít-ki-gia, thì Xan-khê-ríp (Sennacherib), vua Át-sua (Assyrian) đến. Vua đến Giu-đa, đóng trại trước các thành kiên cố và ra lệnh phá các tường thành.” (2 Sb 32,1).

Cung điện xây cho vua Xan-khê-ríp được vua Esarhaddon cho tu sửa và mở rộng từ năm 681-669 TCN. Nó bị phá hủy một phần sau trận Niniveh năm 612 TCN, là trận chiến đã dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Tân Át-sua, mở đường cho sự thành hình vương quốc Tân Babylon.

Tiên tri Giona được tôn kính trong các truyền thống Do-thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo; có nhận định cho rằng, các phần tử vũ trang IS đã dùng mìn để phá hủy ngôi mộ mang tên vị tiên tri, là nhằm tẩy xoá tất cả các yếu tố Do-thái giáo và Ki-tô giáo khỏi thực hành Hồi giáo.

Zelda Caldwell
Chuyển dịch: Ngô Tử (Nhóm phiên dịch Mai Khôi)
http://aleteia.org
Không bao giờ tôi nghĩ đời này tôi sẽ là một linh mục

Không bao giờ tôi nghĩ đời này tôi sẽ là một linh mục

Add Comment
Các viên ngọc qúy trên dường như càng ngày càng nhiều và trong một tương lai gần, có lẽ trở thành thông thường dù vẫn rất qúy. Ít nhất thì chiều hướng đó cũng đang diễn ra tại Hoa Kỳ nói chung, và tại tổng giáo phận Washington D.C. nói riêng, nơi liên tiếp được báo chí nói đến những trường hợp tu muộn rất đáng lưu ý: đó là trường hợp Thầy Jaime Maldonado-Aviles, một cựu khoa học gia của Đại Học Yale, và Cha Roy Edward Campbell, một trong các cựu phó chủ tịch của Ngân Hàng America, người vừa được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Đức Hồng Y Wuerl.
Không bao giờ tôi nghĩ đời này tôi sẽ là một linh mục

Tuần này, nữ ký giả Ellen McCarthy của tờ Washington Post đề cập tới một trường hợp tu muộn đáng lưu ý khác nữa, đó là trường hợp Thầy Anthony Ferguson, một người từng nói rằng “tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ là một linh mục”. Câu nói đó, dù sao, cũng vẫn đúng cho tới lúc này khi thầy còn đang tu học tại Chủng Viện của Đại Học Công Giáo America.

Thực vậy, vào một sáng thứ sáu, trong thành phố quanh thầy, những người cùng trang lứa thiên niên kỷ với thầy đang thức giấc, bừng dậy khỏi các giấc mơ luẩn quẩn, rà các tin nhắn trên áp dụng hẹn hò và sẵn sàng lên đường nhập vào dòng sinh hoạt trần thế, thì Thầy Ferguson bước ra khỏi cửa phòng, mình mặc cùng một chiếc sơmi mầu đen với cổ cồn trắng, vào ngồi trong một nhà nguyện dưới ánh sáng ấm áp tràn vào qua các cửa kính mầu rự rỡ. Trước 8 giờ sáng, thầy sẽ được nghe một bài giảng nói về các ơn phúc của hôn nhân, về việc chúng giúp các người phối ngẫu yêu thương nhau ra sao theo cách Thiên Chúa yêu thương mỗi người họ.

Thầy biết đó là một kinh nghiệm mãi mãi sẽ chỉ có tính lý thuyết, nếu thầy tiếp tục tiến bước trên con đường này: con đường đưa thầy tới chức linh mục. Năm nay 28 tuổi, thầy lắc đầu với ý nghĩ đang nói với cái bản thân trẻ hơn của thầy rằng một ngày kia thầy sẽ kết cục ở lại đây, ở trong chủng viện này. Cậu trai chuyên vẽ hoạt họa từng sống ở Richmond không bao giờ có thể tin được điều này. Mà cái cậu thiếu niên có tâm hồn hướng nội vốn cảm thấy mình có định mệnh làm một họa sĩ cũng không bao giờ tưởng nghĩ như thế. Cái người vô thần mà thầy từng là hồi còn ở cao đẳng hẳn cười nhạo đến nỗi thầy phải chạy ra khỏi phòng.

Nhưng thầy đang ở đây, sống tại một phòng ngủ chung với 80 thanh niên khác, đang học cách giảng cho đám đông và phục vụ người hấp hối. Và vẫn còn đang vật lộn với những gì vốn tiềm ẩn, và không tiềm ẩn, trong đời một người làm linh mục.

Bối cảnh hỗn hợp

Tôn giáo luôn là tấm phông trong đời Thầy Ferguson. Khi thầy còn là một đứa bé, gia đình thầy tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi khi một thành viên nào đó trong gia đình ngã bệnh. Nhưng vì cha của thầy trước đây vốn được dưỡng dục trong truyền thống Thệ Phản, nên các điểm căn bản chung của Kitô Giáo đã được nhấn mạnh nhiều hơn là các điểm đặc thù của Đạo Công Giáo. Ngoài ra, các trình thuật trong Thánh Kinh cũng chỉ làm thầy lưu ý giống như các nhân vật trong “The Lord of the Rings” hay như các sinh vật từ óc tưởng tượng của thầy nhẩy xổ ra trên các bản vẽ nháp.

Nhưng khi tính chân thực của đức tin bị thách thức, nó làm thầy ngỡ ngàng. Lúc đang học ngành nghệ thuật tại Đại Học Richmond, thầy có theo một vài giảng khóa về các tôn giáo thế giới. Các giảng khóa này trình bầy các viễn tượng khác về Thiên Chúa, trong đó, có cả khả thể không có Thiên Chúa nữa.

Thầy nhận định: “tôi rất ngạc nhiên trước việc trên. Tôi không thể nào tin rằng một ai đó lại có thể tin một điều gì khác… Tôi vốn được che chở. Trường Cao Đẳng làm tôi mất sự che chở này”. Và vì thầy không đưa ra được câu trả lời an toàn nào đối với những người vô thần thầy gặp, nên thầy đã gia nhập hàng ngũ của họ. Thầy bảo: “nhưng cô thấy đó, tôi vẫn muốn tin Thiên Chúa. Tôi muốn được tin”.

Ước muốn trên khiến thầy tham gia một nhóm học hỏi Thánh Kinh trong khuôn viên cao đẳng. Do các người Tin Lành hướng dẫn, các buổi học hòi này trình bầy một quan điểm thân mật về Kitô Giáo hơn hẳn Đạo Công Giáo xem ra xa cách của thời thầy còn là một đứa trẻ. Thầy bảo: “Điều tôi bắt đầu thấy trong cuộc học hỏi về Thánh Kinh này là: nếu tôi bước chân theo Đấng Giêsu này, thì hẳn tôi phải thay đổi gần như mọi sự”.

Các biến chuyển

Và quả như thế. Sau năm đầu ở đại học, thầy thôi không đàn đúm nữa và xa lánh các bạn bè tỏ ra gây ảnh hưởng tiêu cực. Để bước sang giai đoạn hai ở đại học, thầy mô tả tâm sự của mình trên một tấm gỗ dán 5 bộ Anh. Thầy bảo: “tôi ném lên đó mọi cuộc vật lộn của tôi, mọi câu hỏi về linh đạo, về Thiên Chúa, lên tác phẩm nghệ thuật của tôi. Nó trở thành chỗ tẩy rửa mọi thứ rác rưởi của tôi”.

Nhưng viễn kiến đôi chút lãng mạn của thầy về cuộc đời trong tư cách nghệ sĩ sẽ chạm trán với thực tế chỉ mấy tháng sau ngày tốt nghiệp. Lúc ấy, thầy nhận được việc làm của một nghệ sĩ đồ họa (graphic artist) và dọn ra ở riêng. Có thì giờ và sống một mình, thầy bắt đầu đọc các bài suy niệm tôn giáo của C.S. Lewis và của Thánh Augustinô.

Thầy nhận định: “đó là một cuộc thâm hậu hóa việc hồi tâm, một thứ mở mắt để tôi thấy rằng ‘à, đây mới là điều tôi có thể dành hết đời mình cho'. Các câu hỏi kia đã được trả lời, và tôi thấy mình tự tin hơn. Và cũng có tinh thần cầu nguyện hơn”.

Thầy giúp thiết lập một thừa tác vụ tuổi trẻ trong giáo phận Richmond và không lâu sau đó, đã dành hầu hết các buổi tối để cùng sinh hoạt với các người Công Giáo tuổi đôi mươi cùng một tâm trí, hoặc học hỏi Thánh Kinh hoặc làm việc thiện nguyện trong cộng đồng. Trong khi ấy, thầy bảo, thầy mong gặp “một cô gái thích hợp. Tôi muốn hẹn hò và kết hôn – đó là mục tiêu của tôi”.

Đường nào cũng là đường

Nhưng những lúc về đêm, khi hết bận rộn và chỉ còn một mình, thầy cũng bắt đầu nghĩ tới việc làm linh mục. “Tôi đổi các trang mạng EHarmony qua các trang mạng ơn gọi. Có một cục than hồng tò mò nho nhỏ ngày càng lớn dần. Thoạt đầu, nó làm tôi hoảng sợ. Hoảng sợ thật”.

Một linh mục bạn cảm thấy thầy Ferguson lưu ý như trên. Nên năm 2012, vị này đã mời thầy tham gia buổi phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh. Thầy được nhờ cầm cây thánh giá lớn để giáo dân tôn kính. Thầy bảo: “Đứng ở đó, cầm cây thánh giá đó tưởng như bị đẩy té bởi những người cúi xuống hôn nó, tôi xúc động đến hết lòng thương yêu họ. Và tôi nhớ đứng ở đó, giữa lòng nhà thờ, tự nghĩ: ‘ôi lạy Chúa, nếu Chúa muốn con dành hết đời con để phục vụ những người này, con sẽ sẵn sàng”.

Nhưng quyết định dấn thân không đến dễ dàng như thế. Thầy gần như không cho ai biết mình đang nghĩ tới đời sống linh mục. “Tôi như người khùng. Tuần thì ‘à, mình thực sự quan tâm tới chức linh mục. Tuần thì lại khiếp đảm trước ý nghĩ đó. Đây thực là một trải nghiệm núi cao/vực thẳm”.

Vấn đề trở nên cấp thiết vào năm 2013, trước lễ Giáng Sinh. Lúc đó, thầy đang hẹn hò với một cựu đồng nghiệp đã được mấy tháng và xem ra người này sẵn sàng tiến vào một liên hệ nghiêm túc hơn. Thầy bảo: “Tôi cảm thấy như có một khúc rẽ ở trên đường. Tôi có thể chọn một là sống với người con gái thực sự tốt lành này hai là nạp đơn xin vào chủng viện. Tôi biết tôi phải quyết định, và tôi biết nếu tôi quyết định theo lối này, thì lối kia sẽ phải đóng lại”.

Trong Thánh Lễ Chúa Nhật, thầy cầu nguyện xin được hướng dẫn. “Câu trả lời mà tôi thực sự cảm thấy như nhận được, và theo tôi, đây không phải là giọng nói của Charlton Heston, mà là một nhận thức rất êm dịu, âm thầm như rót vào tận đáy lòng rằng tôi chọn đường nào cũng không quan trọng. Chúa muốn đường nào cũng được”. Biết được điều đó khiến thầy dễ dàng hơn trong việc cân nhắc điều thầy thật sự muốn. Thầy bảo: “và khi tôi nghĩ đến việc làm linh mục, tôi thực sự cảm thấy có một cảm thức bình an đầy ấm áp”.

Bởi thế, tháng Giêng năm 2014, thầy bắt đầu nạp đơn xin vào chủng viện và tháng Tám năm đó, thầy trình diện tại Cao Đẳng Thần Học của Đại Học Công Giáo America ở Brookland. Đến nay đã được 2 năm rưỡi, với các lớp về tôn giáo, Thánh Lễ hàng ngày và dùng bữa với các bạn đồng chủng sinh. Và những cuộc đàm đạo tâm linh với các vị hướng dẫn về cuộc sống phía trước.

Thầy cho rằng “Thời gian chủng viện dành cho việc hiểu ra điều làm bạn cấu kết quả là tuyệt vời. Theo tôi, đây là việc hiểu rõ mình là ai trước nhan Thiên Chúa”. Điều trên không hề có nghĩa thầy hết quan tâm tới những điều thầy đã hy sinh bỏ đi. “Vẫn có câu hỏi ‘các lợi ích của chức linh mục có đủ làm tôi hạnh phúc hay không? Liệu các ơn phúc của chức linh mục có đủ hay không?’ Đôi khi khó được gặp gia đình. Một đứa nhỏ chạy tới với cha em. Có một sự gần gũi ở đó mà chúng ta đã được dựng nên để có… Và điều đó đôi khi khó thấy được. Có một cái đau nhói ở đấy”.

Nhưng khi cái đau nhói ấy xuất hiện, thầy cũng nghĩ tới mình đang dâng Thánh Lễ trên bàn thờ và nghĩ đến các cảm nghiệm được phục vụ tại các bệnh viện và sử dụng nghệ thuật để dạy cho trẻ em về Thiên Chúa. Phần lớn, thầy nghĩ tới Thiên Chúa. Và thầy thấy mình hết còn hoài nghi.

Thầy bảo: “tất cả hệ ở việc buông tay và để Thiên Chúa thực hiện việc Người làm”.

(Vũ Văn An, Vietcatholic 29.03.2017)
TGP San Francisco được thánh hiến cho Trái tim Vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria

TGP San Francisco được thánh hiến cho Trái tim Vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria

Add Comment
Đức Tổng Giám mục Cordileone nói: “Tôi tin tưởng là tổng giáo phận sẽ nhận được nhiều ơn qua lời cầu bầu của Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria nếu chúng ta được chuẩn bị về tinh thần và sống xứng đáng. Để việc thánh hiến này sinh ơn ích, chúng ta phải chuẩn bị chính mình về đàng thiêng liêng và với giáo lý cho ngày ý nghĩa này.” Ngài cũng cho biết việc thánh hiến này là đáp lại yêu cầu của nhiều tín hữu.
 
TGP San Francisco được thánh hiến cho Trái tim Vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria

Ngày thánh hiến sẽ vào ngày 07/10, cũng là ngàỳ hội Mân Côi hàng năm của tổng giáo phận. Trên trang web của tổng giáo phận có một phần nói về ngày thánh hiến này, trong đó có các kinh về Đức Mẹ và giải thích về Đức Mẹ Fatima.

Trang web mô tả Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria như là tên gọi dành cho đời sống nội tâm của Đức Trinh Nữ Maria, bao gồm “niềm vui và nỗi buồn, những nhân đức và sự hoàn hảo ẩn dấu của Mẹ, và trên hết là tình yêu trinh nguyên của Mẹ dành cho Thiên Chúa Cha, tình mẫu tử cho Chúa Giêsu Con của Mẹ, và tình thương cảm thông của Mẹ cho tất cả mọi người.”

Trang web cũng đề ra một số hoạt động và các ý cầu nguyện cho mỗi tháng cho đến ngày thánh hiến. Cũng có cuộc thi nghệ thuật và viết cho các học sinh và ngày tĩnh tâm về Đức Mẹ ngày 06/10. Đức Mẹ Maria đã hiện ra nhiều lần với 3 trẻ mục đồng là Lucia, Phanxicô và Giaxinta ở Fatima, Bồ đào nha từ tháng 5 đến tháng 10/2017. Mẹ đã trao một sứ điệp cho các em, trong đó Mẹ yêu cầu khắp thế giới cầu nguyện và làm việc đền tội.

 (Hồng Thủy, RadioVaticana 30.03.2017/ CNA 29/03/2017)