Đền thánh Đức Bà La Salette và phần còn lại trong cuộc đởi hai trẻ mục đồng

Đền thánh Đức Bà La Salette và phần còn lại trong cuộc đởi hai trẻ mục đồng

Add Comment
Tiếp đến cậu Maximin Giraud bị ông thị trưởng Pierre Peytard hỏi cung ngày 21 tháng 9 năm 1846. Hai trẻ mục đồng cũng kể cho cha xứ Louis Perrin nghe. Cha xứ kể lại cho giáo dân nghe trong bài giảng thánh lễ và ngày mùng 4 tháng 10 cũng báo cho linh mục trưởng là  cha Pierre Mélin biết. Chuyện Đức Mẹ hiện ra lan chuyền nhanh trong xứ. Hai trẻ mục đồng đã bị nhiều linh mục hỏi cung sau đó: trong tháng 10 năm 1846 bởi cha Mathieu Cat, linh mục giáo phận. Vào tháng 2 năm sau tới phiên linh mục François Lagier một linh mục rất rành thổ ngữ địa phương. 
 
Đền thánh Đức Bà La Salette và phần còn lại trong cuộc đởi hai trẻ mục đồng

Ông Jean Maximin Giraud cha của Maximin là người không sống đạo đã hoán cải ngày mùng 8 tháng 11. Cuộc hành hương đầu tiên đã được tổ chức ngày 24 tháng 11 do chính hai trẻ mục đồng hướng dẫn. Ngày 16 tháng 4 năm 1847 hai em lại bị thẩm phán tỉnh Grenoble là ông Fréderic Joseph Long hỏi cung. Chính trong ngày này đã xảy ra phép lạ khỏi bệnh liên quan tới nữ tu Claire Peirron sống tại Avignon. Ngày 29 tháng 5 hai em lại bị cha Pierre Lambert hỏi cung.

Ngày 31 tháng 5 năm 1847 đã có 5.000 tín hữu tham dự cuộc hành hương và một cây thánh giá đã được dựng lên trên núi. Ngày 22 tháng 7 ĐC Clément Villecourt, Giám Mục La Rochelle, đi hành hương La Salette và hỏi cung Maximin và Mélanie. Ngày 15 tháng 8 lại xảy ra một vụ lành bệnh khác liên quan tới Mélanie Gamon sống tại Corps, nhưng phép lạ được giữ kín.

Ngày mùng 7 tháng 7 năm 1847 Đức Giám Mục giáo phận Grenoble xin các kinh sĩ Pierre Joseph Rousselot và André Berthier cả hai là giáo sư đại chủng viện Grenoble, hướng dẫn cuộc điều tra chi tiết về việc hiện ra  và biên soạn một bản tường đầy đủ. Bản tường trình hoàn tất ngày 15 tháng 10 năm 1847.

Vào tháng 11 năm 1847 Đức Giám Mục giao bản tường trình cho một uỷ ban điều tra gồm 16 chuyên viên, dưới sự hướng dẫn của Đức Giám Mục giáo phận, tất cả các vị đều là linh mục giáo phận: gồm các cha chính kinh sĩ, các cha sở linh mục trưởng, cha sở kiêm giám đốc đại chủng viện.

** Uỷ ban đã nhóm 8 phiên họp tất cả giữa tháng 11 và tháng 12 năm 1847. Trong hai phiên họp có sự hiện diện của Mélanie và Maximin, hai em đã bị hỏi cung rất lâu. Trong lần bỏ phiếu cuối cùng 12 trên tổng số 16 thành viên của uỷ ban ủng hộ tính cách đích thực của việc Đức Mẹ hiện ra. Ba trong 16 vị có các nghi ngờ liên quan tới vài yếu tố của việc hiện ra. Và một vị là cha Jean Pierre Cartellier chắc chắn rằng vụ hiện ra là giả.

Uỷ ban đã kết thúc việc điều tra, và chấp thuận bản tường trình. ĐGM giáo phận phải chờ đợi để chính thức công nhận việc hiện ra, lý do là vì giáo phận Grenoble thuôc giáo tỉnh Lyon, mà ĐHY Bonald, TGM Lyon lại ủng hộ lập trường của cha Cartellier. Bản tường trình được linh mục kinh sĩ Pierre-Joseph Rousselot công bố ngày 26 tháng 6 năm 1848 và được gửi cho ĐGH Pio IX vào tháng 8 năm 1848. Các kết quả cuộc điều tra được Toà Thánh chấp nhận.

Ngày 19 tháng 9 năm 1851 ĐC Phillibert de Bruillard GM Grenoble công bố sắc lệnh viết : « Chúng tôi xét rằng việc Đức Bà hiện ra với hai trẻ mục đồng ngày 19 tháng 9 năm 1946 trên một ngọn núi thuộc dẫy Alpes, trong giáo xứ La Salette, tuỳ thuộc vùng Corps, mang theo trong chính nó tất cả các đặc tính của sự thật và các tín hữu đã xây dựng các lý do để tin vào sự hiện ra một cách không thể nghi ngờ được và chắc chắn ».

Sắc lệnh nhìn nhận của ĐGM Grenoble có tiếng vang rất lớn. Nhiều Giám Mục cho đọc sắc lệnh trong các giáo xứ thuộc giáo phận của mình. Báo chí thì chia ra làm hai phe phò và chống. Sắc lệnh cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau và đặc biệt được đăng tải trên tờ Quan Sát Viên Roma của Toà Thánh số ra ngày mùng 4 tháng 6 năm 1852. Toà Giám Mục Grenoble đã nhận được nhiều thư chúc mừng. Nhưng kinh nghiệm và sự bén nhậy mục vụ của ĐC Phillibert không ngừng ờ đó. Ngày mùng 1 tháng 5 năm 1852 ĐC công bố một thư chính thức  trong đó ngài công bố quyết định xây đền thánh trên núi La Salette kính Đức Mẹ và thành lập một nhóm thừa sai giáo phận có tên gọi là « Các thừa sai của Đức Bà La Salette ».

Nhưng ĐC thêm viết : « Đức Bà đã hiện ra tại La Salette cho toàn thế giới : ai có thể nghi ngờ được điều đó ? ». Tương lại đã xác nhận và vượt xa các chờ mong ấy. Người ta có thể nói rằng Mélanie và Maximin đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Ngày 19 tháng 9 năm 1855 ĐC Ginoulhiac, tân Giám Mục Grenoble bổ túc tình hình như sau : « Sứ mệnh của các em đã kết thúc, giờ đây bắt đầu sứ mệnh của  Giáo Hội ». Từ đó tới nay sau 170 năm đã có biết bao nhiêu tín hữu nam nữ tìm thấy trong sứ điệp của La Salette con đường hoán cải, việc đào sâu đức tin, năng động cho cuộc sống thường ngày, cũng như các lý do cho việc dấn thân với và trong Chúa Kitô trong việc phục vụ con người.


** Đền thánh Đức Bà La Salette nằm trên độ cao 1.800 mét, được xây theo kiểu tân roman, có các phòng ốc rộng rãi để tiếp đón tín hữu và du khách hành hương đến từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như các nước Âu châu và trên thế giới. Đền thánh cách xa làng gần nhất 14 cây số. Vương cung thánh đường Đức Bà La Salette đã được bắt đầu năm 1852, hoàn thành năm 1865 và được tuyên bố là Tiểu vương cung thánh đường năm 1879. Đây là một nhà thờ rộng lớn, có kiểu kiến trúc khắc khổ với hai tháp chuông đồ sộ. Bên trong có hai hàng cột kiểu bisantin nâng đỡ mái vòm. Trên cung thánh có một bức khảm đá mầu mosaic diễn tả cảnh Đức Mẹ ngồi khóc, sứ điệp của Đức Mẹ và cảnh Đức Mẹ ra đi. Tiểu vương cung thánh đường cũng bao gồm một viện bảo tàng nhỏ kể lại lịch sử Đức Mẹ hiện ra tại La Salette. Bên ngoài vương cung thánh đường tín hữu hành hương có thể theo một lối đi có trang hoàng các tượng bằng đồng dẫn tới nơi Đức Mẹ đã hiện ra, nơi từ năm 1861 tới 1879 đền thánh đã được xây cất.

Thánh giá La Salette là Thánh Giá Đức Mẹ đeo trên cổ theo lời kể của Maximin và Mélanie. Giữa cánh ngang của Thánh Giá có một cái búa và các kìm, dưới chân Thánh Giá có một chiếc sọ với hai xương ống chân chéo nhau. Chiếc búa tượng trưng cho kẻ tội lỗi đóng đanh Chúa Giêsu vào thập giá với các tội lỗi của mình. Các chiếc kìm biểu tượng cho các kitô hữu tìm cách nhổ các đinh của thập giá qua cuộc sống thánh thiện và lòng trung thành với Chúa. Chiếc sọ với các xương ống chân chéo nhau diễn tả cái chết không thể tránh được đối với con người, nhằm nhắc nhớ sự cấp thiết của ơn cứu độ.

Toàn đền thánh Đức Bà La Salette được giáo phận Grenoble giao cho Hiệp hội hành hương La Salette trông coi. Các Thừa sai và các nữ tu Đức Bà La Salette bảo đảm việc linh hoạt và tổ chức các chương trình cho tín hữu hành hương với sự cộng tác của các linh mục tuyên uý, giáo phận và dòng tu cũng như các nữ tu và giáo dân. Có nhiều sinh hoạt khác nhau : đọc Lời Chúa, chia sẻ về một đề tài xác định, các cuộc họp và gặp gỡ với các tuyên uý, các cuộc triển lãm về truyền giáo và ơn gọi, việc cộng tác với các nhóm khác nhau, việc tiếp đón các trẻ em vv… Ngày sống tại đền thánh đập nhịp với việc cử hành bí tích Thánh Thể, kinh thần vụ, các buổi canh thức cầu nguyện, các cuộc rước kiệu, lần hạt Mân Côi, đi Đàng Thánh Giá cũng như các lúc thinh lặng cầu nguyện mà tín hữu hành hương luôn luôn có thể làm trên các sườn núi hay trong các nhà nguyện dành riêng cho việc này.

**  Ba năm sau biến cố được trông thấy Đức Mẹ hiện ra Maximin mất người em cùng cha khác mẹ, mẹ kế là bà Marie Court và cha là ông Germain Giraud. Maximin được giao cho người cậu Templier nuôi. Tại trường học chú bé không tiến triển được bao nhiêu. Nữ tu bề trên Tecla gọi chú là « thằng bé động đậy trọn đời ». Một nguời tự xưng là con của vua Louis XVI muốn lợi dụng Maximin cho các mưu toan chính trị của ông. Mặc dù cha sở Corps và ĐGM Grenoble cấm, những người này dẫn Maximin tới Ars để gặp cha sở Jean Marie Vianney. Tuy không thích ở với các nhân vật này, nhưng Maximin lợi dụng dịp tốt để chu du đó đây một chút.
 

Họ được cha phó là Raymond tiếp đón. Nhưng cha Raymond lập tức nói vụ hiện ra tại La Salette là lừa đảo và Maximin là đứa bé nói dối. Sáng ngày 25 tháng 9 năm 1850 Maximin gặp cha Vianney hai lần. Kết quả là trong vài năm sau đó cha Vianney không ngừng nghi ngờ và khổ đau. Còn Maximin thì lang thang hết nơi này nơi khác : từ Tiểu chủng viện Grenoble tới Roma, từ trường Tonerre cho tới Petit Jouy gần Versailles và Paris. Sau đó anh làm việc trong một nhà hưu dưỡng, rồi là sinh viên y khoa thi rớt, làm việc trong một tiệm bán thuốc tây, đầu quân trong đội lính của Toà Thánh, rồi bỏ ngang trở về Paris. Anh tranh luận với báo Đời sống Paris khi nhật báo này chỉ trích  biến cố Đức Mẹ hiện ra tại  La Salette. Năm 1866 anh phát hành cuốn sách nhỏ « Lời thú nhận đức tin của tôi vào sự hiện ra của Đức Bà La Salette ».

Tiếp đến anh cũng hợp tác với một người buôn rượu mạnh lợi dụng danh tiếng của anh để buôn bán. Trong chiến tranh năm 1870 Maximin đầu quân tại Grenobe và sau cùng trở về Corps và sống nghèo cùng với hai ông bà ân nhân Jourdain. Tháng 9 năm 1874 anh lên đền thánh Đức Bà và kể lại cho tín hữu nghe biến cố Đức Mẹ hiện ra hồi năm 1846. Ngày mùng 2 tháng hai năm 1875 anh đến nhà thờ giáo xứ lần cuối. Ngày mùng 1 tháng 3 cùng năm anh nhận của ăn đàng, và qua đời năm phút sau đó khi chưa đầy 40 tuổi. Ước muốn cuối cùng anh viết trong di chúc là dâng trái tim cho Đức Bà La Salette. « Tôi tin vững vàng cả với giá máu của tôi vào việc hiện ra của Đức Rất Thánh Trinh Nữ trên núi thánh La Salette ngày 19 tháng 9 năm 1846 : việc hiện ra mà tôi đã bênh vực với lời nói, viết và khổ đau… với các tâm tình này tôi xin dâng quả tim tôi cho Đức Bà La Salette ». Xác anh nghỉ yên trong nghĩa trang làng Corps, nhưng quả tim của anh được giữ trong vương cung thánh đường cạnh giàn đại phong cầm.

** Còn chị Mélanie thì gia nhập dòng Chúa Quan Phòng ở Corps, là thỉnh sinh, rồi tập sinh, được mọi người chú ý và thăm viếng. Nhưng ĐGM Grenoble không cho khấn để tập cho chị biết sống khiêm nhường và đơn sơ. Rất tiếc chị nghe lời những người bất an và bệnh hoạn thấm nhuần các lời tiên tri dân gian và các lý thuyết giả thần bí và khải huyền. Chị nói và viết những điều không đúng với các lời Đức Mẹ đã nói tại La Salette, nhưng chỉ diễn tả các tước đoạt phải chịu thời thơ ấu. Ngay từ năm 1854 ĐC Ginoulhiac đã viết : « Các lời tiên đoán được gán cho chị Mélanie không có nền tảng, không quan trọng liên quan tới Sự Kiện của La Salette… chúng sau Sự Kiện ấy và không liên quan gì tới nó ».

Rất tiếc chị Mélanie đã tiếp tục phổ biến các lời tiên trị của mình, được ông León Bloy giàn dựng và tạo ra cả một trào lưu Mélanie, nhưng chỉ là các khẳng định riêng của chị, không liên quan gì tới biến cố La Salette và sự thật đức tin của Giáo Hội. Năm 1851 một linh mục người Anh đem chị sang Anh quốc, chị gia nhập dòng kín Cát Minh Darlington, nhưng ra khỏi dòng năm 1860. Sau đó chị thử gia nhập dòng các nữ tu Thương xót Marseille, sống trong nhà của dòng bên Hy Lạp, rồi dòng Cát Minh Marseille. Tiếp đến chị sang Italia sống tại Castellammare Sabbia gần Napoli trong vòng 17 năm, viết các bí mật và một luật dòng mà chị muốn thành lập. Toà Thánh khuyến cáo Giám Mục sở tại cấm không cho các loại in ấn này lưu hành. Chị tiếp tục tìm kiếm các đồng minh cho phép in ấn các tài liệu của mình. Sau một thời gian lang thang bên Pháp năm 1892 chị trở về Italia sống tại Lecce và viết một cuốn sách tự thuật được tiểu thuyết hoá và chứa đựng các điều thần bí giả, các bóng ma và aỏ tưởng của các người chị tiếp xúc, chứ không liên quan gì tới biến cố La Salette. Sau cùng chị sống tại Altamura tỉnh Bari nam Italia, và qua đời tại đây ngày 14 tháng 12 năm 1940.


TMH 522 (Linh Tiến Khải, RadioVaticana 31.03.2017)
Nữ giáo sư người Pháp sẽ soạn suy niệm Đàng Thánh Giá thứ Sáu Tuần Thánh

Nữ giáo sư người Pháp sẽ soạn suy niệm Đàng Thánh Giá thứ Sáu Tuần Thánh

Add Comment
Giáo sư Pellettier là một trong những người được giải thưởng Ratzinger, thường được gọi “giải Nobel thần học”, là giải thưởng được Quỹ Joseph Ratzinger / Đức Giáo hoàng Benedetto XVI trao hàng năm. Giáo sư Pellettier đã tốt nghiệp và đậu tiến sĩ tại đại học Paris III và cao học thần học tại Học viện Công giáo Paris. Hiện tài bà đang dạy Kinh Thánh tại chủng viện Notre Dame của Paris.
Nữ giáo sư người Pháp sẽ soạn suy niệm Đàng Thánh Giá thứ Sáu Tuần Thánh

Giáo sư Pellettier đã đoạt giải thưởng Ratzinger vào năm 2014. Trong các nghiên cứu, bà chuyên về ngôn ngữ đại cương, văn chương đối chiếu, quan hệ Do thái và Kitô và đã xuất bản các tác phẩm về chú giải Thánh kinh, cũng như vai trò của nữ giới trong Kitô giáo.

Các bài suy niệm do giáo sư Pellettier viết sẽ được đọc trong buổi đi Đàng Thánh giá Trọng thể tại hí trường Colosseo do Đức Giáo hoàng Phanxicô chủ sự, vào thứ Sáu Tuần Thánh 14/04 tới đây. Các bài suy niệm vào dịp này năm ngoái được Đức Hồng y Gualtiero Bassetti, Tổng giám mục Perugia viết.

(Hồng Thủy, RadioVaticana 31.03.2017/ ACI 31/04/2017)
Cảm nhận của vị Linh mục khi chứng kiến nhà thờ bị ISIS phá hủy

Cảm nhận của vị Linh mục khi chứng kiến nhà thờ bị ISIS phá hủy

Add Comment
“Một trong những kẻ đứng đằng sau tất cả những chuyện này do ISIS gây ra đó là ma quỷ, rồi đến cám nhóm thánh chiến, và những người ủng hộ họ, một số do cuồng tín và những kẻ khác vì những lợi ích khác nhau,” vị linh mục đã nói thế khi trở lại viếng thăm ngôi nhà thờ thánh George bị hủy hoại nặng nề ở Bartella.
 

Cha Montes nói rằng vẫn luôn có thế lực sự dữ muốn tấn công Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế của nhân loại. “Nhưng từ khi họ không thể làm giết hại được Ngài lần nữa, họ đã tấn công Giáo hội của Ngài, tấn công các tín hữu”, cha nói.

“Bạn đã thực sự chứng kiến nơi thiêng liêng đã bị đốt cháy, phá hoại, làm ra ô uế. Thật không thể nói nên lời khi chứng kiến cảnh tượng, hình ảnh như thế và những gì các nhân chứng kể. Nó làm cho bạn phải nổi da gà”.

“Hãy xem nền nhà đã bị tang hoang, các bức tường sụp đổ, băng ghế bị đập phá, tượng ảnh vụn vỡ, các cuốn sách thiêng liêng biến thành tro. Bạn cảm thấy có một sự thù hận trút xuống ở đây, hận thù có thể tóm gọn trong một câu: khước từ Đức Kitô và Thập Giá của Ngài”.

Cha nhấn mạnh rằng “sự thù ấy đã khiến họ tấn công vào nhà của Chúa Kitô, tấn công vào những ngôi đền thờ sống đó là các Kitô hữu.” Cha Montes nói rằng nhóm IS “tấn công bất cứ ai mà không cùng suy nghĩ như họ. Các Kitô hữu bị bách hại vì Chúa Kitô, là Đấng đầu tiên đã bị bách hại.

“Khi thấy một ngôi nhà thờ bị phá hủy sẽ gây nên một nỗi buồn, đau đớn, và giận dữ, nhưng đồng thời cũng là một niềm tự hào thánh thiêng vì chúng ta đang bị bách vì Chúa Kitô và thuộc về Ngài. Chúa Giêsu đã nói rằng khi điều này xảy ra, các con hãy vui mừng, vì phần thưởng của các con là được ở trên Thiên Đàng.”

GNsP (theo CNA)
Argentina vẫn rất quý mến Đức Phanxicô

Argentina vẫn rất quý mến Đức Phanxicô

Add Comment
Theo cuộc thăm dò, 41,5 % có một “hình ảnh rất tốt” về Đức Giáo hoàng, 24,9 % “tốt” và 15,4 % cho rằng “khá tốt”. Chỉ có 6,2 % cho rằng “khá xấu”, 2,4 % cho là “xấu” và 3,8 % là “rất xấu”. Được hỏi vấn đề nào nổi bật nhất nơi Đức Phanxicô, 27,5 % nêu lên tính “khắc khổ và trung thực của ngài”, 21,4 % về sự “quan tâm của ngài đối với người nghèo” và 15,8 % về sự “chỉ trích chế độ tư bản” của ngài.
 

30 % xích lại gần với Giáo hội

12 % cũng nhấn mạnh đến việc ngài “lên án các linh mục phạm tội ấu dâm” trong khi một số báo chí Argentina tố cáo ngài đã che chở cho linh mục Julio César Grassi, một linh mục của địa phận lân cận với địa phận Buenos Aires, vụ mà Đức Giáo hoàng không có quyền xét xử, linh mục Grassi bị kết án 13 năm tù vì tội tấn công tình dục nơi các em tuổi vị thành niên.

Trên các tác dụng lâu dài của việc bầu chọn giáo hoàng, nếu 40,7 % người dân Buenos Aires nói họ không thay đổi ý kiến trong quan hệ của họ với Giáo hội thì 29,2 % nói họ xích lại gần Giáo hội nhờ Đức Phanxicô.

54 % cho biết họ cầu nguyện mỗi ngày, trong số này có 32 % cầu nguyện với Đức Mẹ Lujan, một con số thay đổi rất lớn giữa các độ tuổi của người dân: 70 % nơi những người lớn hơn 60 tuổi, 62 % nơi phụ nữ, nhưng chỉ có 30 % nơi những người dưới 30 tuổi.
 

Ba phần tư người Argentina mong Đức Giáo hoàng về thăm đất nước

Những người tham dự cuộc thăm dò cho rằng Giáo hội công giáo là Giáo hội được người dân tin tưởng nhiều nhất: 27,9 %, giới truyền thông chỉ được 10,5 %, các hiệp hội và tòa án được 7,2 %, chính quyền chỉ có 7,1 % và phe đối lập chỉ có 6,3 %… 

Cuối cùng có 73,9 % người Argentina mong Đức Giáo hoàng về thăm quê cha đất tổ (chỉ có 12,87 % không thích). Chuyến viếng thăm dự trù vào năm 2018, ngài đi cùng một lần đến các nước Chilê và Pêru lân cận.

Viện Analogias đã thực hiện cuộc thăm dò này qua điện thoại từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 3 với 2000 người dân ở Buenos Aires. Thủ đô Buenos Aires có 14.5 triệu dân, chiếm một phần ba dân số của nước Argentina.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch
Cuộc sống tin cậy của tổ phụ Abraham loan báo sự phục sinh

Cuộc sống tin cậy của tổ phụ Abraham loan báo sự phục sinh

Add Comment
ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 29-3-2017. Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa đoạn trích từ chương 4 thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma viết rằng: “Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. 
 
Cuộc sống tin cậy của tổ phụ Abraham loan báo sự phục sinh

Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy,17 như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có. Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết… Bởi thế, ông được kể là người công chính.”

ĐTC nói: đoạn thư chúng ta vừa nghe là một món quà lớn, vì nó khiến cho chúng ta hiểu rằng tổ phụ Abraham không chỉ là cha chúng ta trong lòng tin mà cũng là cha chúng ta trong niềm hy vọng nữa; không phải chỉ là cha trong lòng tin nhưng cũng là cha trong niềm hy vọng, vì các biến cố trong cuộc đời tổ phụ cũng loan báo sự Phục Sinh và cuộc sống mới chiến thắng sự dữ và chính cái chết nữa.

 
Cuộc sống tin cậy của tổ phụ Abraham loan báo sự phục sinh - Ảnh minh hoạ 2

** Văn bản nói rằng Abraham tin nơi Thiên Chúa “là Đấng ban sự sống cho người đã chết và gọi vào sự hiện hữu các vật không hiện hữu” (Rm 4,17), và văn bản xác định: “Người không chao đảo trong niềm tin, mặc dù thấy thân xác mình và cung lòng bà Sara đã như chết rồi” (Rm 4,19).  Đó cũng chính là kinh nghiệm chúng ta được mời gọi sống. ĐTC miêu tả Thiên Chúa như sau:

Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải cho Abraham là Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa làm cho ra khỏi sự tuyệt vọng và cái chết, Thiên Chúa kêu gọi vào sự sống. Trong câu chuyện của Abraham tất cả đều trở thành  một thánh thi chúc tụng Thiên Chúa, là Đấng giải thoát và tái sinh, tất cả trở thành ngôn sứ. Và nó trở thành cho chúng ta, giờ đây nhận biết và cử hành việc thành toàn của tất cả mầu nhiệm Phục Sinh. Thật thế, Thiên Chúa “đã cho Đức Giêsu sống lại từ những kẻ đã chết” (Rm 4,24), để cả chúng ta nữa trong Ngài cũng có thể từ cái chết bước qua sự sống. Và khi đó Abraham thực sự có thể nói mình “là cha của nhiều dân tộc”, trong nghĩa ông rạng ngời lên như lời loan báo một nhân loại mới, đã được Chúa Kitô cứu chuộc khỏi tội lỗi và cái chết, và đưa vào trong vòng tay ôm tình yêu của Thiên Chúa, một lần cho luôn mãi.

Tới đây thánh Phaolô  giúp chúng ta minh xác mối dây ràng buộc chặt chẽ giữa lòng tin và niềm hy vọng. Ngài khẳng định rằng tổ phụ Abraham tin, vững vàng trong niềm hy vọng chống lại mọi hy vọng” (Rm 4,18).
Cuộc sống tin cậy của tổ phụ Abraham loan báo sự phục sinh - Ảnh minh hoạ 3
 
ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: 
Niềm hy vọng của chúng ta không dựa trên các lý luận, các dự trù và các trấn an của con người; và nó được bầy tỏ ở nơi không còn có hy vọng nữa, ở nơi không còn gì để hy vọng, như xảy ra cho chính tổ phụ Abraham, trước cái chết gần kề của ông và trước việc không sinh sản của vợ là bà Sara. Đối với họ đó đã là kết thúc, họ đã không thể có con và trong tình trạng ấy, Abraham đã tin và đã hy vọng chống lại mọi hy vọng. Điều này thật lớn lao!  Niềm hy vọng lớn lao đâm rễ trong đức tin, và chính vì thế nó có khả năng đi xa hơn mọi hy vọng. Phải, vì nó không dựa trên lời nói của chúng ta, nhưng dựa trên Lời của Thiên Chúa. Cả trong nghĩa này nữa khi đó chúng ta được mời gọi noi gương tổ phụ Abraham, là người trước sự hiển nhiên của một thực tại  xem ra phải chết, ông vẫn tín thác nơi Thiên Chúa, “hoàn toàn xác tín rằng  những gì Ngài dã hứa Chúa cũng có thể đưa tới chỗ thành toàn” (Rm 4,21).

** Tôi muốn hỏi anh chị em một câu: Chúng ta, tất cả chúng ta đây, chúng ta có xác tín về điều này không? Chúng ta có xác tín rằng Thiên Chúa yêu chúng ta, và tất cả những gì Ngài đã hứa với chúng ta thì Ngài sẵn sàng đưa nó tới chỗ thành toàn không? “Nhưng mà thưa cha chúng con phải trả bao nhiêu tiền cho điều đó?” Chúa trả lời: Có một giá: đó là hãy mở rộng con tim. Hãy rộng mở con tim anh chị em, và sức mạnh này của Thiên Chúa sẽ làm cho nó tiến tới, sẽ làm các điều kỳ diệu, và sẽ dậy cho anh chị em biết niềm hy vọng là gì. Đó là giá trả duy nhất: rộng mở con tim cho đức tin và Chúa sẽ làm mọi sự còn lại.

Đó chính là sự mâu thuẫn đồng thời là yếu tố mạnh mẽ nhất, cao cả nhất mà trên bình diện nhân loại xem ra không chắc chắn và không thể dự kiến, nhưng không suy giảm, kể cả trước cái chết, khi Đấng đã hứa là Thiên Chúa của sự Phục Sinh và sự sống. Đây là điều không phải bất cứ ai cũng hứa được đâu, không! Người hứa là Thiên Chúa của sự Phục Sinh và sự sống.

Anh chị em rất thân mến, hôm nay chúng ta hãy xin Chúa ơn được xây dựng, không phải trên các an ninh, các khả năng của chúng ta, nhưng trên niềm hy vọng vọt lên từ lời hứa của Thiên  Chúa, như là các con cái đích thật của tổ phụ Abraham. Những gì Thiên Chúa hứa, Ngài đưa tới chỗ thành toàn điều Ngài hứa. Ngài không bao giờ nuốt lời.  Và khi đó cuộc sống chúng ta sẽ có được một ánh sáng mới, trong ý thức rằng Đấng đã cho Con của Ngài sống lại cũng sẽ cho chúng ta phục sinh, và thực sự khiến cho chúng ta trở thành một với Ngài, cùng với tất cả các anh chị em khác trong đức tin. Chúng ta tất cả đều tin. Hôm nay chúng ta tất cả ở quảng trường này, chúng ta chúc tụng Chúa, chúng ta sẽ hát Kinh Lậy Cha, rồi lãnh nhận phép lành… Tuy điều này qua đi, nhưng nó cũng là một lời hứa của hy vọng. Nếu hôm nay chúng ta có con tim rộng mở, tôi bảo đảm với anh chị em là tất cả chúng ta sẽ gặp nhau trong quảng trường trên Trời luôn mãi, không bao giờ tàn. Và đó là lời hứa của Thiên Chúa. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta, nếu chúng ta rộng mở tâm lòng mình.

** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương hiện diện. Trong các nhóm nói tiếng Pháp ngài đặc biệt chào các thành viên Hiệp hội những người bại liệt và cộng đoàn Suối nguồn và cầu chúc họ vững niềm cậy trông và kiên trì tiến bước trong đời.

 
Cuộc sống tin cậy của tổ phụ Abraham loan báo sự phục sinh - Ảnh minh hoạ 4

ĐTC cũng chào các nhóm hành hương đến từ Êcốt, Phần Lan, Na Uy, Philippines và Hoa Kỳ, đặc biệt là nhóm các dân biểu Anh quốc liên lạc với Toà Thánh. Ngài đánh giá cao công việc của họ và cầu mong mùa Chay thánh là thời gian ân sủng và canh tân tinh thần cho mọi người.

Bên cạnh các nhóm, Đức và Tây Ban Nha ĐTC cũng chào các đoàn hành hương Bồ Đào Nha, đặc biệt là nhóm “Bạn của các viện bảo tàng Bồ Đào Nha”, các học sinh và giáo sư trường trung học Cedros. Ngài cầu chúc họ biết canh tân tinh thần, sống gắn bó với Chúa Kitô hơn và hăng say làm việc trong vườn nho của Chúa.

Với các nhóm Ba Lan ngài đặc biệt chào đoàn hành hương người mù Wieliszka và cầu chúc tất cả học sống hy vọng mạnh hơn sự dữ và cái chết, vì dựa trên Lời Chúa là Đấng đã cho Đức Kitô sống lại. Trong số các nhóm Ý ĐTC chào các linh mục của phong trào Tổ Ấm Focolari, hiệp hội bênh vực sự sống Italia, tín hữu vùng Cassino mừng 70 năm thánh hiến nhà thờ kính thánh Antôn thành Padova, cũng như đội bóng rổ Gaeta. Ngài cầu mong chuyến viếng thăm Roma củng cố sự hiệp thông của họ với Giáo Hội hoàn vũ và Người kế vị thánh Phêrô.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu chúc muà Chay giúp giới trẻ tái khám phá ra tầm quan trọng của lòng tin trong cuộc sống thường ngày; người đau yếu biết kết hiệp các khổ đau của họ với các khổ đau trên thập giá của Chúa Kitô; và các cặp vợ chồng mới cưới biết tạo thuận tiện cho sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

(Linh Tiến Khải, RadioVaticana 30.03.2017)